Emily trên dải cầu vồng
Phan_15
“Câu chuyện ám muội, xấu xa đã diễn ra như thế này.
“Chiều tối ngày hôm qua, Ilse và tôi ‘tản bộ’ dọc phố Queen. Đúng lúc đi qua nhà bà già Taylor thì chúng tôi gặp một người đàn ông. Tôi không biết người này… tôi không biết anh ta cao hay thấp, già hay trẻ, đẹp hay xấu, đen hay trắng, Do Thái hay không Do Thái, đã kết hôn hay vẫn còn độc thân. Nhưng tôi biết ngày hôm đó anh ta vẫn chưa cạo râu!
“Anh ta bước đi vội vã. Rồi một chuyện xảy ra, chỉ vẻn vẹn trong chớp mắt nhưng phải mất vài giây mới diễn tả hết được. Tôi tránh sang bên để anh ta đi qua… anh ta lại bước theo đúng hướng đó… tôi lao sang hướng khác… anh ta cũng thế… rồi những tưởng vừa nhìn thấy cơ hội để vượt lên trước… anh ta xông tới… thành ra tôi lại lao thẳng vào anh ta. Nhận ra chẳng thể tránh được vụ va chạm, anh ta bèn vung cả hai tay ra… tôi lao thẳng vào giữa… và bởi choáng váng trước vụ đụng độ, hai cánh tay anh ta bất giác khép lại một thoáng quanh người tôi trong khi mũi tôi đập thẳng vào cằm anh ta.
“ ‘Tôi… tôi… rất xin lỗi,’ người đàn ông tội nghiệp đó hổn hển nói, giãy nảy ra khỏi người tôi cứ như thể vừa đụng phải hòn than nóng hừng hực, rồi phi thẳng vào góc đường.
“Ilse choáng váng đến sững sờ. Bạn ấy bảo cả đời chưa từng chứng kiến chuyện gì thú vị như vậy. Chuyện xảy ra nhanh đến độ nếu đứng ngoài nhìn vào thì thể nào người ta cũng cho rằng tôi và người đàn ông đó đã dừng lại, chăm chăm nhìn nhau một lúc, rồi sau đó điên cuồng lao vào vòng tay nhau.
“Mũi tôi đau điếng. Ilse bảo đúng lúc chuyện xảy ra bạn ấy thấy bà cô Taylor đang nhòm ra ngoài cửa sổ. Tất nhiên bà già hay ngồi lê đôi mách đó đã lân la đưa chuyện khắp nơi theo đúng cách diễn giải của bà ta.
“Tôi giải thích toàn bộ câu chuyện với bác Ruth, nhưng bác ấy vẫn không khỏi hoài nghi và có vẻ vẫn cho rằng câu chuyện này quả thật quá mức thiếu thuyết phục.
“ ‘Lạ quá đấy nhỉ, giữa vỉa hè rộng đến hơn bốn mét mà cháu lại chẳng thể bước qua một người đàn ông mà không ôm chầm lấy anh ta,’ bác ấy nói.
“ ‘Thôi mà, bác Ruth,’ tôi nói, ‘cháu biết bác nghĩ cháu là kẻ ranh mãnh, khó lường, ngu ngốc và vô ơn bạc nghĩa. Nhưng bác cũng biết rõ cháu mang trong người một nửa dòng máu Murray, và liệu bác có cho rằng bất kỳ người phụ nữ nào mang bất kỳ giọt máu Murray nào chảy trong huyết quản lại ôm chầm lấy một người bạn nam ngay giữa đường giữa phố không?’
“ ‘Ồ, ta đã nghĩ là cháu khó có khả năng tỏ ra mặt dạn mày dày đến mức đó,’ bà Ruth thừa nhận. ‘Nhưng bà Taylor lại bảo bà ta đã chứng kiến chuyện đó. Ai ai cũng đều đã nghe kể rồi. Ta không thích trong nhà lại có người bị nói này nói nọ theo kiểu đó. Nếu cháu đừng có bất chấp lời ta khuyên can cứ thế đi chơi cùng Ilse Burnley thì đã chẳng xảy ra chuyện này rồi. Đừng có bao giờ để những chuyện tình cờ như thế xảy ra lần nữa đấy.’
“ ‘Những chuyện như thế xảy ra một cách tình cờ đâu ạ,’ tôi nói. ‘Chúng đều đã được số phận định trước hết rồi.’ “
“3 tháng Sáu, 19…
“Miền Chính Trực mới đẹp đẽ xiết bao. Tôi có thể quay lại hồ Dương Xỉ để viết lách rồi. Bác Ruth cực kỳ nghi ngờ hành động này. Bác ấy không bao giờ quên rằng tôi từng có tối ‘gặp gỡ Perry’ ở đó. Hồ nước giờ đang độ quyến rũ nhờ nằm dưới bóng những cây dương xỉ non. Tôi nhìn vào mặt nước, tưởng tượng ra nó chính là cái hồ trong truyền thuyết, có thể chiếu tỏ tương lai cho những ai soi mình xuống đó. Tôi vẽ ra trong tâm trí hình ảnh chính mình đang nhón gót lên bước tới hồ lúc nửa đêm một ngày trăng tròn, quăng vào giữa lòng hồ một món đồ quý giá nào đó rồi rụt rè nhìn cảnh tượng vừa bày ra trước mắt.
“Liệu nó sẽ chỉ cho mình thấy gì đây? Đường Alps đã được chinh phục một cách huy hoàng? Hay thất bại?
“Không, không bao giờ có chuyện thất bại!”
“9 tháng Sáu, 19…
“Tuần vừa rồi là sinh nhật bác Ruth và tôi đã tặng bác ấy một chiếc khăn trang trí giữa bàn do tôi tự thêu. Bác ấy cảm ơn tôi nhưng thái độ có phần cứng nhắc và có vẻ chẳng mảy may quan tâm đến nó.
“Tối nay, tôi ngồi trong hốc cửa sổ bên hông phòng ăn, làm bài tập đại số dưới ánh sáng cuối ngày. Mấy cánh cửa xếp đều mở toang, và bác Ruth đang nói chuyện cùng bà Ince trong phòng khách. Tôi cứ đinh ninh hai người biết tôi đang ở bên hông nhà, nhưng có lẽ tôi đã bị rèm cửa che khuất mất rồi. Đột nhiên tôi nghe nhắc đến tên mình. Bác Ruth đang khoe với bà Ince tấm khăn lót giữa bàn, vẻ khá hãnh diện.
“ ‘Cô cháu Em’ly tặng cái này cho tôi làm quà sinh nhật đấy. Nhìn xem đường kim mũi chỉ đẹp chưa này. Con bé khéo tay khâu vá thêu thùa lắm.’
“Đây có đúng là bác Ruth không vậy? Tôi ngạc nhiên đến sững cả người, chẳng nói năng nhúc nhích gì được.
“ ‘Khâu vá thêu thùa thì đã là gì so với sự thông minh của con bé chứ,’ bà Ince nói. ‘Tôi nghe nói hiệu trưởng Hardy vẫn đang kỳ vọng con bé sẽ đứng đầu lớp trong kỳ thi cuối năm đấy.’
“ ‘Mẹ con bé, cô em Juliet của tôi ấy, vốn thông minh sáng láng lắm đấy,’ bác Ruth nói.
“ ‘Mà con bé lại còn xinh xắn nữa chứ,’ bà Ince nói.
“ ‘Cha con bé, Dougles Starr, vốn đẹp trai đến khó ai bì kịp,’ bác Ruth nói.
“Đến đó thì họ bỏ ra ngoài. Vậy là, ít nhất một lần trong đời, một kẻ nghe lén đã được nghe người khác nói điều tốt đẹp về chính mình!
“Ấy vậy mà lại là từ bác Ruth cơ đấy!”
“17 tháng Sáu, 19…
“Giờ thì tôi không còn phải tắt nến vào buổi tối nữa, ít nhất là khi vẫn chưa quá muộn. Bác Ruth cho phép tôi thức khuya vì giờ đang là kỳ thi cuối năm. Perry đã làm thầy Travers tức điên vì cậu ta viết vào cuối bài kiểm tra đại số chữ Matthew 7:5. Đến lúc tra lại, thầy Travers đọc thấy câu: ‘Hỡi kẻ đạo đức giả, trước hết hãy lấy cây đà ra khỏi mắt mình đi, rồi mới thấy rõ mà lấy cái rác ra khỏi mắt an hem mình được.’ Ai cũng biết thầy Travers chỉ làm ra vẻ thế thôi chứ thật ra chẳng giỏi giang gì trong môn Toán. Vậy nên thầy ấy nổi giận đùng đùng ném bài thi của Perry đi để ‘coi như sự trừng phạt vì tội láo xược’. Thật ra Perry tội nghiệp đã nhầm lẫn. Cậu ta chủ định viết là Matthew 5:7. ‘Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ được thương xót!’ Cậu ta đã tìm gặp thầy Travers để giải thích, nhưng thầy Travers không chịu nghe. Đến lúc đó Ilse bèn ra tay vào hang hùm bắt cọp, có nghĩa là, đến gặp thầy hiệu trưởng Hardy, kể lại đầu đuôi câu chuyện và xin thầy ấy nói giùm với thầy Travers. Kết quả là Perry vẫn được điểm, nhưng bị cảnh cáo lần sau đừng có mà tìm cách xuyên tạc Kinh Thánh nữa.
“28 tháng Sáu, 19…
“Năm học đã kết thúc. Tôi đã giành được cái ghim cài ngôi sao. Đây là một năm đầy trải nghiệm, học tập chuyên cần nhưng cũng tràn ngập những sự kiện thú vị, và rất nhiều nỗi day dứt. Giờ đây, tôi sắp quay trở lại Trăng Non yêu dấu, tận hưởng hai tháng tuyệt vời đắm chìm trong tự do và hạnh phúc.
“Trong kỳ nghỉ, tôi định sẽ viết một cuốn sách làm vườn. Tôi đã nung nấu ý tưởng này được một thời gian và từ lúc nảy sinh ý nghĩ này, tôi chẳng tài nào viết truyện được nữa. Tôi sẽ thử sức ở một loạt tiểu luận về khu vườn của bác Jimmy, mỗi tiểu luận sẽ được kết thúc về khu vườn của bác Jimmy, mỗi tiểu luận sẽ được kết thúc bằng một bài thơ. Nó không chỉ là cách thực hành hiệu quả mà còn làm vui lòng bác Jimmy nữa.”
Chương 12: Trước dấu hiệu của đống cỏ khô
“Tại sao cháu lại làm một chuyện như thế chứ?” bà Ruth hỏi; tất nhiên kèm theo cả tiếng khịt mũi nữa. Bất cứ khi nào bà Ruth bình phẩm về một thứ gì đó là y như rằng sẽ phải kèm theo một tiếng khịt mũi, thậm chí kể cả những lần người viết tiểu sử này đây lỡ quên mất mà không nhắc tới.
“Để kiếm thêm vài đô nhét vào cái ví xẹp lép của cháu ạ,” Emily trả lời.
Kỳ nghỉ kết thúc, cuốn Sách làm vườn đã hoàn thành và được đọc định kỳ cho ông Jimmy, dưới ánh chiều chạng vạng giữa tháng Bảy tháng Tám, trong niềm vui sướng vô bờ của ông; còn giờ đã sang tháng Chín, đã đến lúc quay lại với trường lớp và việc học hành, với Miền Chính Trực, với bác Ruth. Váy vóc Emily đã dài hơn chút xíu, mái tóc lại được vấn lên theo phong cách “Bím tóc Cadogan” khá thịnh hành thời đó, cao đến nỗi trên thực tế gần như “vọt” hẳn lên; cô đã quay trở lại Shrewsbury để hoàn thành năm học thứ hai; và cô vừa nói với bà Ruth rằng cô dự định thu này ở Shrewsbury sẽ làm việc vào các thứ Bảy.
Tòa soạn báo Thời đại Shrewsbury đang lên kế hoạch phát hành một ấn phẩm đặc biệt của Shrewsbury có kèm cả minh họa, và Emily sẽ đến tất cả những nơi cô có điều kiện đi được, chào hàng ấn phẩm này để thuyết phục mọi người đặt mua. Cô chật vật mãi cũng nhận được sự đồng ý có phần miễn cưỡng của bà Elizabeth, một sự chấp thuận mà hẳn sẽ chẳng đời nào giành được nếu bà Elizabeth vẫn đang chi trả toàn bộ chi phí học hành cho Emily. Nhưng ông Wallace lại đang trả tiền sách vở và học phí cho cô, và thỉnh thoảng ông còn không quên bóng gió với bà Elizabeth rằng ông phải tử tế và hào phóng lắm thì mới làm thế được. Trong thâm tâm, bà Elizabeth chẳng mấy quý mến người em trai Wallace và luôn thấy phản cảm vì ông ta chỉ giúp đỡ Emily có chút xíu thôi mà cứ ra cái vẻ ta đây tốt đẹp lắm. Vậy nên, khi Emily trình bày rằng trong suốt mùa thu, cô có cách dễ dàng kiếm đủ tiền để trang trải ít nhất là một nửa chi phí mua sách vở cho cả năm học, bà Elizabeth đành đầu hàng. Ông Wallace sẽ tự ái nếu bà, Elizabeth, nhất mực đòi thanh toán khoản phí của Emily trong khi ông ta đã quyết định trả nó rồi, nhưng ông làm gì có lý do chính đáng để mà bực bội với Emily vì cô đã tự mình kiếm tiền trang trải các chi phí. Lúc nào ông ta chả ra rả thuyết giáo rằng cánh phụ nữ nên tỏ ra tự lực cánh sinh, rằng họ nên có đủ khả năng tự nuôi sống bản thân.
Một khi bà Elizabeth đã chấp thuận thì bà Ruth cũng chẳng phản đối làm gì, nhưng bà vẫn không tán thành chuyện này.
“Cứ thử nghĩ đến chuyện cháu sẽ một mình lang thang khắp thị trấn xem!”
“Ôi, cháu sẽ không đi một mình đâu ạ. Ilse cũng sẽ đi cùng cháu mà,” Emily đáp.
Có vẻ như bà Ruth chẳng thấy như thế thì có gì tốt đẹp hơn.
“Chúng cháu sẽ bắt đầu vào thứ Năm,” Emily nói.
“Vì cha thầy Hiệu trưởng Hardy mới mất nên thứ Sáu trường sẽ nghỉ học, và ba giờ chiều thứ Năm lớp học của bọn cháu đã tan hết rồi. Tối hôm đó chúng cháu sẽ đi chào hàng ở đường Tây.”
“Cho ta hỏi chút nhé, liệu các cháu có định cắm trại bên vệ đường không đấy?”
“Ôi, không đâu ạ. Chúng cháu sẽ ngủ qua đêm tại nhà dì của Ilse ở Wiltney. Sau đó, đến thứ Sáu, chúng cháu sẽ cắt ngược lại đường Tây, chào hàng khắp cả khu trong ngày hôm đó, rồi đến tối thứ Sáu sẽ nghỉ lại tại nhà người quen của Mary Carswell ở St. Clair… rồi đến thứ Bảy sẽ theo đường Sông đi về nhà.”
“Lố bịch không để đâu cho hết,” bà Ruth nói. “Từ xưa đến nay, chẳng người nhà Murray nào từng làm một chuyện như thế. Ta thật chẳng hiểu nổi Elizabeth đấy. Rõ là chẳng đứng đắn chút nào khi hai cô bé như cháu và Ilse một mình lang thang khắp thị trấn tận những ba ngày.”
“Theo bác thì chúng cháu có thể gặp chuyện gì mới được chứ?” Emily hỏi.
“Có thể xảy ra đủ chuyện đấy,” bà Ruth nghiêm trang đáp.
Bà nói đúng. Đủ thứ chuyện có thể xảy ra, và đã xảy ra, trong chuyến du hành đó; nhưng buổi chiều thứ Năm, cả Emily lẫn Ilse đều lên đường trong tâm trạng hào hứng, hai cô nữ sinh lớ ngớ chỉ nhìn thấy cuộc đời toàn một màu hồng và hạ quyết tâm sẽ vui vẻ ra trò. Emily đặc biệt cao hứng. Hôm đó cô vừa nhận được thêm một bức mỏng trong hòm thư, trên góc in địa chỉ của một tờ tạp chí tầm thường, thông báo gửi biếu cô ba kỳ của tờ báo nói trên làm nhuận bút cho bài Vườn đêm, bài thơ được đặt làm phần kết cho cuốn Sách làm vườn và vốn được cả cô lẫn ông Jimmy đánh giá là viên ngọc quý của tập sách. Emily đã cất cuốn Sách làm vườn vào trong chiếc tủ trên mặt lò sưởi ở phòng cô tại Trăng Non, nhưng cô đã chép lại các “đoạn kết” trong đó định trong mùa thu sẽ lần lượt gửi tới một số tòa soạn báo. Quả là điềm tốt khi ngay trong lần gửi đầu tiên, bài thơ đã nhanh chóng được chấp nhận.
“Nào, ta đi thôi,” cô nói, “băng qua những rặng đồi đến chốn xa xăm’… một câu nói xa xưa quá dễ xiêu lòng người! Ở phía sau những rặng đời trước mặt chúng ta kia, có thể là bất cứ thứ gì.”
“Tớ hy vọng sẽ thu nhập được nhiều tư liệu cho các bài tiểu luận của chúng mình,” Ilse nói đầy thực tế.
Thầy hiệu trưởng Hardy đã thông báo với lớp tiếng Anh năm nhất rằng trong học kỳ mùa thu, ông yêu cầu bọn họ phải hoàn thành mấy bài tiểu luận, và Emily cùng Ilse quyết định rằng trong số các bài tiểu luận của họ, ít nhất phải có một bài nhắc đến những trải nghiệm thuyết phục mọi người đặt mua báo, dưới góc nhìn riêng rẽ của mỗi cô gái. Thế là một công đôi việc.
“Có lẽ tối nay chúng mình cứ làm việc dọc theo đường Tây và các đường nhánh cho đến khi tới lạch Thợ Săn,” Emily nói. “Chúng mình phải đến được đó trước hoàng hôn. Rồi chúng mình theo con đường du mặc băng qua vùng nông thôn, xuyên rừng Malvern sang đến bìa rừng bên kia, khá gần Wiltney đấy. Chỉ mất nửa giờ đi bộ thôi, chứ nếu đi vòng qua đường Malvern thì sẽ mất cả tiếng đồng hồ đấy. Buổi chiều hôm nay mới đáng yêu làm sao chứ!”
Chiều hôm đó quả là rất đáng yêu, một buổi chiều kiểu thế chỉ có thể được mang đến giữa những ngày tháng Chín, khi mùa hè lén lút đánh cắp thêm một ngày mơ mộng huy hoàng nữa. Những cánh đồng đang mùa thu hoạch tắm đẫm ánh mặt trời chan chứa khắp không gian: vẻ khắc khổ đến mê người của những cây linh sam phương Bắc khiến cho mọi con đường hai cô gái bước chân qua đều chìm đắm trong vẻ diệu kỳ say lòng: cúc hoàng an quấn quanh hàng rào như những dải ruy băng và ngọn lửa tế thần của những cây liễu lan đều đã được nhen lên trên hết thảy các vùng đất cháy nắng dọc theo những con đường hẻo lánh khuất lấp giữa rặng đồi. Nhưng chẳng mấy chốc, hai cô bé đã nhận ra việc chào hàng đặt báo chẳng phải chỉ toàn những điều thú vị; dẫu vậy, như lời Ilse đã nói, chắc chắn họ đã khám phá được kha khá điều về bản chất con người để dùng cho các bài tiểu luận của mình.
Có một ông già hễ Emily vừa kết thúc một lời nhận xét nào đó là lại chêm ngay vào một từ “Hừm”. Đến lúc cuối, khi được đề nghị đặt mua báo, ông ta bèn thô lỗ trả lời, “Không.”
“Cháu lấy làm mừng vì lần này ông không nói ‘Hừm’ nữa,” Emily nói. “Câu đó nghe càng lúc càng tẻ nhạt.”
Ông già trợn mắt nhìn chằm chằm… rồi bật cười cùng cục.
“Liệu cô có bất kỳ mối liên hệ nào với những người nhà Murray kiêu kỳ không vậy? Hồi còn trẻ tôi từng làm việc ở một nơi người ta gọi là Trăng Non và một người nhà Murray – tên bà ấy là Elizabeth – cũng có lối nhìn kiêu căng ngạo mạn giống hệt như cô vậy.”
“Mẹ cháu là một người mang họ Murray.”
“Tôi cũng nghĩ vậy đó; cô có những nét đặc trưng của dòng họ đó. Chà, hai đô la đây nhé, và cô có thể ghi tên tôi vào. Tôi vẫn muốn xem qua số đặc biệt đó trước khi đặt mua hơn. Tôi vốn không thích mua da gấu trước khi nhìn thấy con gấu. Nhưng cũng đáng bỏ ra hai đô la để chứng kiến một Murray kiêu kỳ lặn lội đến mời mọc ông già Billy Scott đặt mua báo.”
“Sao cậu không lườm chát mặt ông ta đi?” Ilse hỏi khi hai cô gái đã rời đi chỗ khác.
Emily đang bước phăm phăm, đầu ngẩng cao, ánh mắt toát lên vẻ cáu kỉnh.
“Tớ đi mời mọi người mua báo chứ không phải để thiên hạ nảy sinh thêm vài bà góa nữa. Tớ không trông mong là mọi chuyện sẽ xuôi chèo mát mái từ đầu đến cuối.”
Lại có một người đàn ông khác, suốt lúc Emily trình bày cứ càu nhà càu nhàu mãi, ấy vậy nhưng, đúng lúc cô đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đón nhận lời từ chối thì ông ta lại đặt mua luôn năm số báo.
“Ông ấy thích làm người khác thất vọng,” cô nói với Ilse, trong lúc họ đi xuống đường mòn. “Ông ấy thà khiến cho người khác thất vọng một cách dễ chịu còn hơn là chẳng làm gì hết.”
Một người khác thì liến thoắng chửi rủa, “không nhắm cụ thể vào cái gì hết mà chỉ chung chung thôi,” theo như lời Ilse; còn một ông già khác đang tính đặt báo đến nơi rồi thì tự nhiên vợ ông ta nhảy vào phá đám.
“Nếu tôi mà là ông thì tôi sẽ không làm thế đâu, bố nó ạ. Biên tập viên của tờ báo đó là một kẻ vô đạo đấy.”
“Ông ta chắc chắn là một kẻ vô liêm rồi,” “bố nó” nói, rồi cất tiền trở lại trong ví.
“Ngon lành!” Emily lẩm bẩm khi đã thoát ra khỏi tầm nghe. “Mình phải ghi nhanh chuyện này vào cuốn sổ Jimmy mới được.” Như thông lệ, phụ nữ đón tiếp hai cô bé bằng thái độ lịch sự hơn nhiều so với cánh nam giới, nhưng lại đặt hàng nhiều hơn. Thật ra, người phụ nữ duy nhất đặt báo là một phu nhân luống tuổi đã bị Emily chinh phục tình cảm bằng cách lắng nghe với vẻ cảm thông bản miêu tả dài dằng dặc của bà luống tuổi vừa được nhắc đến ở trên về vẻ đẹp và những ưu điểm của chú mèo cưng Thomas đã chết của bà; tuy nhiên phải thừa nhận rằng đến lúc kết thúc câu chuyện, Emily vẫn thì thầm riêng với Ilse, “Xin hãy mua tờ Charlottetown đi.”
Trải nghiệm tệ nhất của họ là với một người đàn ông xỉ vả họ không tiếc lời vì quan điểm chính trị của ông ta khác với quan điểm chính trị của tờ Thời đại và có vẻ như ông ta cho rằng hai cô gái phải chịu trách nhiệm về chuyện đó. Khi ông ta dừng lại giữa chừng để lấy hơi, Emily bèn đứng dậy.
“Đi mà đá con chó ấy, ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn đấy,” cô bình tĩnh nói, trong lúc hiên ngang bỏ đi. Ilse giận đến mức tái cả người.
“Cậu có tin nổi là người ta lại có thể tỏ ra đáng ghét đến mức đó không?” cô bùng nổ. “Mắng mỏ chúng mình cứ như thể chúng mình phải chịu trách nhiệm cho quan điểm chính trị của tờ Thời đại vậy! Thế đấy… đề tài cho bài tiểu luận của tớ sẽ là Bản chất con người từ điểm nhìn của người chào hàng. Tớ sẽ miêu tả người đàn ông đó và mường tượng ra cảnh tớ nói với ông ta tất cả những điều tớ muốn nhưng lúc đó lại không nói!”
Emily phá lên cười; rồi giận dữ trở lại.
“Cậu làm thế thì được. Đến việc trả thù bằng cách đó tớ cũng chẳng thể… tớ bị ràng buộc bởi lời hứa với bác Elizabeth. Tớ sẽ phải bám chắc vào hiện thực. Thôi nào, đừng nghĩ đến gã thô lỗ nữa. Xét cho cùng, chúng mình đã kiếm được kha khá đơn đặt hàng rồi; và ở kia có một cụm bu lô trắng chắc hẳn là nơi ở của các nữ thần rừng; lại còn đám mây trên những cây linh sam kia nào có khác gì bóng ma nhạt nhòa màu vàng của một đám mây.”
“Dẫu vậy, tớ chỉ muốn nghiền lão ma cà rồng đó ra thành cám,” Ilse nói.
Tuy nhiên, đến điểm dừng tiếp theo, họ trải qua khoảng thời gian dễ chịu và được mời ở lại dùng bữa tối. Đến lúc hoàng hôn, họ đã hoàn thành khá tốt công việc thuyết phục mọi người đặt hàng và thu thập được kha khá trò đùa cợt trêu chọc riêng tư để tô điểm niềm vui cho nhiều tháng ngày hoài niệm. Hai cô gái quyết định tối đó sẽ không đi chào hàng thêm nữa. Họ vẫn chưa đi xa đến tận lạch Thợ Săn nhưng theo Emily, nếu họ đi tắt từ địa điểm hiện tại này thì sẽ an toàn. Rừng Malvern không quá rộng, và bất kể họ đang ở chỗ nào đi chẳng nữa, chỉ cần men theo bìa rừng phía Bắc để ra ngoài là họ có thể nhìn thấy Wiltney rồi.
Hai cô gái leo qua một hàng rào, trèo đồi cắt qua một cánh đồng cỏ dập dờn hoa cúc tây, rồi bị nuốt chửng vào giữa cánh rừng Malvern, cắt ngang cắt dọc qua hàng chục con đường mòn. Thế giới biến mất sau lưng họ, chỉ còn lại hai cô gái đơn độc giữa lãnh địa của vẻ đẹp hoang dã. Emily cảm thấy chuyến đi bộ xuyên qua khu rừng quá ngắn ngủi, nhưng Ilse, vốn đã mệt mỏi và trước đó bị giẫm lên một hòn sỏi, lại có cảm giác con đường dài dằng dặc đến khó chịu. Emily thích tất cả mọi thứ ở nó; cô thích ngắm nhìn mái tóc vàng óng lấp lánh ánh nắng của Ilse lấp ló giữa những thân cây xanh xám, dưới những cành cây dài ngoằng đu đưa giữa không trung; cô thích giai điệu mơ hồ như trong giấc mộng của những chú chim ngái ngủ; cô thích ngọn gió nhẹ tinh nghịch lúc hoàng hôn đang vừa lang thang vừa thầm thì giữa ngọn cây; cô thích mùi hương thanh nhã đến khó tin của cây cối và hoa rừng; cô thích những cây dương xỉ non lả lướt quét qua đôi mắt cá chân mềm mại như lụa của Ilse; cô thích cái thứ thanh mảnh màu trắng đầy khiêu khích vừa sáng lên nhấp nhoáng trong thoáng chốc cuối con đường uốn lượn lờ mờ sáng; đó có phải một cây bu lô không nhỉ, hay là một nữ thần rừng? Sao cũng được… dù gì thì nó cũng đã mang đến cho cô một nỗi mê đắm khoét sâu đến nhức nhối trong lòng mà thường vẫn được cô gọi bằng cái tên “ánh chớp”, thứ tài sản vô giá mà những khoảnh khắc mị hoặc không thể cân đo đong đếm được của nó chính là những chu kỳ quý giá của tồn tại đơn thuần. Emily thơ thẩn bước đi, toàn tâm toàn ý nghĩ đến vẻ đáng yêu của con đường chứ chẳng buồn nghĩ ngợi gì đến chính con đường đó cả, lơ đãng bám theo Ilse đang khập khà khập khiễng, cho tới tận khi cuối cùng cây cối bỗng nhiên mất hút trước mắt hai cô gái, và họ nhận ra mình đang ở giữa một khoảng đất trống, phía trước là một đồng cỏ hoang nhỏ, và ở phía bên kia, dưới ánh sáng trong trẻo hắt từ đằng sau, một thung lũng thoai thoải trải dài hút tầm mắt, có phần trần trụi hoang vu, và chẳng hề nhìn thấy bóng trang trại nào, dẫu nhiều hay ít.
“Này… chúng mình ở đâu thế này?” Ilse thất thần hỏi. “Tớ chẳng thấy có gì giống với Wiltney hết.”
Emily đột ngột dứt khỏi cơn mơ màng và cố gắng xác định phương hướng. Điểm mốc duy nhất xuất hiện trong tầm mắt là một ngọn tháp cao vót trên ngọn đồi cách đó mười dặm.
“Trời ạ, đó là ngọn tháp của nhà thờ Cơ Đốc ở Indian Head,” cô nói dứt khoát. “Và ở dưới đó chắc hẳn là đường Hardscrabble. Chúng mình hẳn đã rẽ nhầm ở đâu đó rồi, Ilse ạ… chúng mình đã đi ra bìa rừng phía Đông thay vì phía Bắc.”
“Vậy là chúng mình đã cách Wiltney năm dặm,” Ilse tuyệt vọng nói. “Tớ không đời nào có thể đi bộ xa đến thế được; và chúng mình không thể quay trở lại qua đường rừng kia nữa; chỉ mười lăm phút nữa thôi trời sẽ tối đen như mực mất rồi. Chúng mình biết làm gì đây?”
“Thừa nhận rằng chúng mình đã lạc đường và biến nó thành chuyện tốt đẹp,” Emily nói một cách bình tĩnh.
“Ôi, chúng mình đã lạc thật rồi, thực tế đúng là như thế,” Ilse rên rỉ, yếu ớt leo lên ngồi trên cái hàng rào xiêu vẹo, “nhưng tớ chẳng hiểu chúng mình sẽ làm cách nào để biến chuyện này thành tốt đẹp được. Chúng mình không thể ở đây suốt đêm. Điều duy nhất nên làm bây giờ là đi xuống dưới đó xem liệu có nhà nào cho chúng mình trọ lại không. Tớ không thích viễn cảnh đó đâu. Nếu đó là đường Hardscrabble thì dân ở đó nghèo lắm, và bẩn thỉu nữa. Tớ đã nghe dì Net kể vô khối câu chuyện quái dị về đường Hardscrabble rồi.”
“Sao chúng mình không ở lại đây suốt đêm?” Emily hỏi. Ilse nhìn Emily để xem liệu cô có nói nghiêm túc không; và nhận ra cô quả có nghĩ thế thật.
“Chúng mình biết ngủ ở đâu mới được chứ? Vắt người ngang qua cái hàng rào này à?”
“Trên đống cỏ khô kia kìa,” Emily nói. “Nó mới dỡ xong một nửa… đúng phong cách Hardscrabble. Trên nóc bằng phẳng mà; có một cái thang dựa vào nó kìa; cỏ khô ráo và sạch sẽ; tối nay đang giữa mùa hè ấm áp; vào thời điểm này trong năm trời không có muỗi; chúng mình có thể đắp áo choàng lên người để tránh sương đêm. Sao lại không chứ?”
Ilse nhìn đống cỏ khô chất ở góc đồng cỏ nhỏ; rồi phá lên cười tán thành.
“Bác Ruth sẽ nói gì đây nhỉ?”
“Bác Ruth chẳng cần phải biết đến chuyện này làm gì. Tớ sẽ tỏ ra ranh mãnh quá mức tưởng tượng một lần trong đời. Thêm nữa, tớ luôn khao khát được ngủ ngoài trời. Đó là một trong những mong ước thầm kín mà tớ những tưởng vĩnh viễn chẳng bao giờ đạt được, bởi tớ đã bị rào giậu khắp nơi khi ở cùng các bác của tớ. Thế mà giờ nó bất thình lình rơi vào giữa lòng tớ y như một món quà được các vị thần ném xuống. Đúng là một may mắn diệu kỳ.”
“Nhỡ trời mưa thì sao,” Ilse nói, dẫu vậy vẫn nhận thấy ý tưởng của cô bạn quả vô cùng hấp dẫn.
“Sẽ không mưa đâu; nào có nhìn thấy đám mây nào ngoài những đám mây bông hồng hồng trắng trắng đang đùn lên phía trên Indian Head chứ. Chúng thuộc dạng mây luôn mang lại cho tớ cảm giác mong mỏi được sải cánh bay vút lên cao như chú chim đại bàng rồi nhào xuống lao thẳng vào giữa chúng.”
Chẳng mấy khó khăn để leo lên đống cỏ khô nhỏ đó. Hai cô gái nằm xuống đống cỏ, mãn nguyện thở dài, nhận ra họ mệt mỏi hơn mình tưởng nhiều. Đụn cỏ này được bới lên từ những nhành cỏ hoang thơm ngát từ đồng cỏ nhỏ kia, và tỏa ra một mùi hương quyến rũ không sao tả xiết, một thứ hương mà những cây cỏ được bàn tay con người chăm sóc không sao có thể mang đến được. Hai cô gái chẳng nhìn thấy gì ngoài bầu trời mênh mông màu hồng nhạt phía trên đầu, lác đác mấy vì sao sớm, cùng với đường viền nhạt nhòa của những ngọn cây bao quanh cánh đồng. Từng đàn dơi và chim én không rõ đường nét chao liệng giữa không trung, nổi bật trên tấm phông nền màu vàng đang nhạt dần ở phương Tây; thoang thoảng mùi rêu, mùi dương xỉ ngay dưới tán cây phía trên hàng rào; một cặp bạch dương lá rung trong góc đang cất giọng nói trong vắt như tiếng bạc, thầm thì kể cho nhau nghe những câu chuyện ngồi lê đôi mách của khu rừng. Họ cười đùa với nhau trong niềm vui thú không chút ràng buộc. Họ đột nhiên chìm đắm trong ảnh hưởng từ một bùa phép cổ xưa, và phép thuật của bầu trời cùng ma thuật của khu rừng đan cài vào nhau dệt nên câu thần chú vô phương thay đổi của một bùa phép đầy uy lực.
“Vẻ đáng yêu đến mức này dường như không thực,” Emily lẩm bẩm. “Nó quá tuyệt vời đến độ làm tớ đau đớn. Tớ không dám nói lớn tiếng vì chỉ sợ nó sẽ biến mất. Hôm nay chúng mình có bực tức với lão già khó chịu đó cùng với quan điểm chính trị thô lỗ của lão ta không, Ilse? Chao ôi, ông ta có tồn tại đâu chứ; dù sao đi nữa cũng không tồn tại trong thế giới này. Tớ nghe thấy tiếng Bà Gió đang chạy trên đồi bằng những bước chân êm ái, khẽ khàng. Tớ sẽ mãi mãi nghĩ về gió như một con người. Bà là một người đàn bà đanh đá khi thổi từ phía Bắc, một người tìm kiếm cô đơn khi thổi từ hướng Đông, một cô gái đang cười khanh khách khi đến từ hướng Tây, và tối nay, từ hướng Nam tới là một nàng tiên bé nhỏ màu xám.”
“Làm sao mà cậu lại nghĩ ra được những thứ như thế vậy?” Ilse hỏi. Đây là một câu hỏi mà vì một lý do huyền bí nào đó vẫn luôn canh cánh trong lòng Emily.
“Tớ không nghĩ ra chúng… chúng cứ thế đến thôi,” cô trả lời có phần cộc lốc.
Ilse bị giọng nói này chọc tức.
“Vì Chúa, Emily, đừng có kỳ quặc như thế!” cô kêu lên.
Trong chớp mắt, thế giới diệu kỳ mà ngay lúc này đây Emily đang sống trong bỗng run rẩy và nhập nhòa giống như một hình phản chiếu trên mặt nước vừa bị khuấy động. Rồi sau đó…
“Đừng tranh cãi ở đây nhé,” cô nài nỉ. “Chúng mình có thể đẩy nhau ngã ra khỏi đống cỏ mất.”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian